Phân tích bài thơ Sóng toàn bộ trọn bộ nhất

Hồ Xuân Hương là một thi sĩ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối có người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm" là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”. Là 1 phụ nữ tài giỏi với thời trang mạnh mẽ nhưng đời tư lại mang phổ biến bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà tới hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không với hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là thi sĩ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại rộng rãi bài thơ độc đáo với phong bí quyết thơ vừa thanh vừa tục. Hồ Xuân Hương được coi là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam, “là thi sĩ độc đáo với một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”.

“Tự tình” là bài thơ bộc lộ nỗi buồn và hàn huyên của thi sĩ về căn số chơ vơ của mình và niềm khát khao được hạnh phúc, được quân tử yêu thương.

Mở đầu bài thơ là ko khí đêm khuya thanh vắng:


"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ chiếc hồng nhan có nước non”

Không gian được mở ra giữa đêm khuya, thao thức, nghe tiếng trống dập dồn sang canh. Không gian cô quạnh, không có bóng người, gợi cho người ta cảm thấy ớn lạnh. Nhà thơ nhận thấy sự lẻ loi đang bao vây lấy con người mình, thấy mình cô độc giữa cuộc đời, cảm giác mình nhỏ bé đến lạ giữa đêm tối lại càng gợi sự cô quạnh vắng và trống vắng, ko tìm thấy ánh sáng. Nghe các câu thơ mà thấm thía, tội cho 1 người phụ nữ lẻ bóng mong được ái tình đích thực.

Tâm trạng bi đát, mượn rượu giải sầu:

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

Nhà thơ nói lên tâm trạng và nỗi lòng của mình. Rất buồn, ngồi uống uống chén rượu để quên đi hiện tại, để quên đi sự đơn chiếc phong bế nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh giấc lại càng buồn hơn. Mượn rượu giải sầu, ai ngờ càng sầu hơn, lại càng gò bó mình hơn trong không gian cô quạnh. Nhìn trăng thấy trăng đã xế bóng cơ mà chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ, "Khuyết chưa tròn": Chưa vô vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng. Không biết tới khi nào vầng trăng đó mới tròn và thi sĩ mới được cảm nhận hạnh phúc của bản thân.

"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân trời đá mấy hòn"

Nhà thơ ko say, nhìn cảnh vật ở các nơi khác nhau, mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh vô cùng là ước lệ. Nhìn từ gần sát mình đến xa tít tắp tận chân trời. “Rêu” là loài mỏng manh nhỏ bé, nhưng lại mang sinh khí vô cộng mạnh mẽ, dù ở điều kiện nào nó vẫn vững mạnh cực kỳ là tốt. Cái nhìn khoẻ khoắn, sở hữu một sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.

"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sớt tí con con."

Từ tự nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí. Nhà thơ cảm thấy chán ngán cho những quy luật của tạo hóa, xuân đi qua, rồi xuân lại đến. Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, 1 sự tuần hoàn liên tục nghe mà chán ngán cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua nhưng mà không sở hữu tình duyên trọn vẹn. Mảnh tình của mình qua bao ngày ngóng đợi, thì lại buộc phải san sẻ, ko được trọn vẹn. Một nỗi buồn chán và thất vọng lại bao phủ. Ý cũng muốn nói tới những người thê thiếp đâu được hưởng niềm hạnh phúc mong ước, mà bắt buộc san sớt cho bao nhiêu người. Thê thiếp thì đâu mang tiếng nói, đâu với quyền gần đặt toàn bộ chuyện.

Đây là 1 bài thơ vô cùng hay và ý nghĩa. Một bài thơ cất đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành. Trong nền thơ trung đại, lần thứ 1 mới với 1 người đàn bà dám đề cập lên điều ấy.



3. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 - chiếc 2

Ni-cu-lin, một người Nga, nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, đã phát hiện nền văn học dân gian Việt Nam thời trung cổ ko được thừa nhận vào lĩnh vực thơ ca cao cấp".

Thực ra, lịch sử văn học trung đại Việt Nam vẫn có quy luật này: hai bộ phận văn học dân gian và văn chương viết tồn tại và phát triển đồng thời trong suốt trường kì lịch sử vẫn luôn luôn với tác động qua lại. Khi các tinh hoa của hai phòng ban này kết tụ lại ở các bắt mắt sáng tạo nào đó, trong các điều kiện lịch sử nhất định, thì giang sơn lại được thấy sự xuất hiện của những tài năng văn chương có những áng thơ văn bất hủ. Ấy là các ví như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,…

Tuy nhiên, ở Hồ Xuân Hương, quy luật này vẫn với một yếu tố đặc biệt khác thường. Đây là nếu tư tưởng dân gian lấn át hẳn tư tưởng chính thống mà những tác giả Nho học, dù là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng ko hoàn toàn dứt bỏ được. Một ý thức nổi loạn quyết liệt muốn san bằng đa số đẳng cấp trong xã hội, 1 khát vọng được sống, được hưởng hạnh phúc đúng sở hữu nghĩa thiết thực nhất, người nhất, trần ai nhất, chống lại hầu hết buộc ràng của lễ giáo phong kiến và toàn bộ các gì trái có trùng hợp – một thiết bị tư tưởng đặc biệt đề cao người nữ giới là hạng người bị khinh tốt nhất trong xã hội phong kiến – và lấy quy luật Tạo hoá khiến chuẩn, đề cao sự sống tự dưng như trời đất giao hoà, âm dương giao phối. Một thiết bị tư tưởng đi thẳng từ tục lệ thờ tự sinh thực khí, từ các lễ hội nam nữ giao phối tượng trưng còn tồn tại mãi sau này ở nhiều làng xã Việt Nam, từ những bức tranh Đông Hồ như Hứng dừa, Đánh ghen hay các bức khắc gỗ Các cô gái tắm ao vẫn còn đấy ở đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc, từ các truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn hay các câu ca dao khôn cùng táo tợn:

- Không chồng mà chửa mới ngoan,

Có chồng mà chửa dương thế đã nhiều.

- Có chồng càng dễ chơi ngang,

Đẻ ra con thiếp con chàng con ai.

- Lẳng lơ cũng chẳng sở hữu mòn,

Chính chuyên cũng chăng sơn son để thờ.

Tư tưởng đấy đem đến cho Hồ Xuân Hương một nhãn lực riêng về thế giới: nhìn đâu cũng thấy Tạo hoá sinh sôi, âm dương giao phối, một thế bạn teen trung, sống động, phải chăng tươi phồn thực, phơi phới xuân tình, đầy tràn nhan sắc dục,…

Một tư tưởng như thế tiến công mạnh mẽ và chiếm lĩnh được nội dung chủ đạo của văn học chưng học, chỉ sở hữu thể xuất hiện ở thời đại mà chế độ phong kiến khủng hoảng sâu sắc, thời đại quật khởi của nhân dân. Ấy là thời đại từ Nam chí Bắc, nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp dẫn đến đỉnh cao là phong trào Tây Sơn lật đổ vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, dẹp tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rước thẳng lên ngôi vua 1 anh hùng nông dân. Ông "vua áo vải" này có khí thế của quần chúng. # như triều dâng thác đổ, đã chớp nhoáng xoá sổ quân Xiêm phía Nam và đánh tan hàng vạn quân Thanh phía Bắc.

Phải coi thơ Xuân Hương như tiếng dội trực tiếp của khí thế ấy mới hiểu được tinh thần táo bạo vô cùng bình dân ở người đàn bà trí thức này. Tất nhiên Hồ Xuân Hương không cần là một hiên tượng trơ tráo mà nằm trong cả một trào lưu văn học đầy ý thức nhân văn chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Nhưng nên nhắc ở nhà thơ này, sự "xâm lăng" của ý thức dân gian vào văn chương viết vẫn mãnh liệt hơn cả. Nếu ta nhớ rằng, tới mãi đầu thế kỉ XX, những nhà nho cấp tiến như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn coi Truyện Kiều là dâm thư, cô Kiều là con đĩ, thì có thể mường tượng được, vào thế kỉ XVIII, dư luận của giới nho sĩ đã phản ứng dữ dội như thế nào trước các vần thơ đi trước thời đại của Hồ Xuân Hương.

Nhưng khát vọng phóng thích nhân dân, phóng thích người phụ nữ của Xuân Hương khiến sao mang thể thực hiện được trong cảnh ngộ lúc bấy giờ. Đến ngay như Vương triều Tây Sơn cuối cộng cũng rơi vào khủng hoảng để cho Nguyễn Ánh trở lại khôi phục được nền chuyên chế nặng nề. Cho bắt buộc phạm vi của chế độ phong kiến phát triển thành quá chật hẹp đối với sức sống và tư tưởng ngang tàng của Xuân Hương; nhưng ngược lại, dù chống phá mạnh mẽ, sôi sục thế nào, Xuân Hương cuối cùng cũng không thoát ra khỏi được mực thước của chế độ ấy. Có thể nói, Xuân Hương là nỗi bức bối, là sự ấm ách của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, muốn mua 1 lối thoát mà chưa tìm được. Tấn thảm kịch lịch sử này khi không lại gặp gỡ tấn bi kịch cá nhân của người phụ nữ họ Hồ, một kì nữ tài tình với sự thức tính mạnh mẽ về tinh thần cá nhân, về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, thế mà cuộc đời lại nên chịu nhiều bất hạnh: một lần khiến lẽ, hai lần goá chồng!

Cái bức bối, loại ấm ách vừa sở hữu tính cá nhân vừa mang tính lịch sử đó đã tạo nên một nội dung riêng và một chất giọng riêng của thơ Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương sáng tác 1 loạt ba bài Tự tình (Kể nỗi lòng), người ta đánh số I, II, III.

Căn cứ vào ý thơ, giọng thơ, giới nghiên cứu đồ rằng, ba bài Tự tình đều khiến cho khi thi sĩ tuổi đời đã xế và, vì vậy đã từng buộc phải nếm vị chua chát, nỗi chán ngán của phận lẽ mọn và cảnh goá bụa. Nghĩ lại những ngày qua, người thiếu phụ – nhà thơ "Giật mình mình lại thương mình xót xa". Nhưng khác có Thuý Kiều, chiếc tôi Xuân Hương, dù bế tắc vẫn ko hoàn toàn từ trần phục, dù bất lực vẫn ko chịu buông xuôi.

Bài trước tiên (Tự tình I) lấy cảm hứng vào lúc đã sở hữu tiếng gà báo sáng ("Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom") ; bài đồ vật hai (Tự tình II) lấy cảm hứng vào lúc đêm đã về khuya ("Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn"). Đó là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi, của sum hiệp vợ chồng, bởi thế cũng là thời khắc người vợ lẽ hay người sương phụ cảm nhận được toàn bộ nhất, sâu sắc đẹp nhất, thấm thìa nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của thân phận mình:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Đêm đã khuya mà thi sĩ vẫn tính thức – vì ko ngủ được hay không muốn ngủ? – ngồi lắng tai tiếng trống cầm canh nơi 1 đồn ải nào vẳng lại, nhắc nhớ một cách quái ác thời gian nhường nhịn như cứ dồn đuổi nhau trôi đi, trôi đi một cách uổng phí tổn và bất nghĩa lí trên thân phận trái ngang của người nữ giới vẫn khao khát hạnh phúc mà cần chịu cảnh chăn đơn, gối chiếc,…

Trơ loại hồng nhan sở hữu nước non.

Chữ nghĩa của Xuân Hương bao giờ cũng trần truồng đến bất nhẫn như thế.

Khi thi sĩ tiêu dùng đến hai chữ "hồng nhan" thì có tức thị ở người thiếu phụ, xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn, vậy mà cứ nên "trơ" ra đó, không kẻ đoái hoài. Có người hiểu chữ "trơ" theo nghĩa trơ lì, không còn cảm giác: "Đau thương, ê chề ngấm sâu dần, sâu dần vào xương cốt, biến con người thành vật vô tri". Đây là cách hiểu chữ trơ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: "Đá vẫn trơ gan cộng tuế nguyệt". Tôi cho rằng, hiểu thơ như thế là trái ngược vói tư tưởng tác giá trong Tự tình (bài II) này. Người đàn bà này, dúng là đã nếm trải đa dạng bất hạnh, nhưng tâm hồn vẫn xoành xoạch cháy bỏng, xoành xoạch sôi sục, 1 tâm trạng canh cánh ko yên, trình bày ở hai câu thực:

Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,

Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.

Uống rượu để quên đời, nhưng ko quên được: "say lại tỉnh", khao khát sự mãn nguyện mà ngó ra ko kể trời, chỉ thấy đêm tàn trăng khuyết.

Nhưng đây mới thực là tính cách và tiếng nói Xuân Hương:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Thế giới hình tượng của thơ Xuân Hương bao giờ cũng hoạt động mạnh mẽ và huyên náo như thế. Đó là ko gian, thời gian trần tục, cõi trần bắt buộc luôn luôn vận động, sôi sục, đối chọi với không khí tĩnh lặng, phi thời gian của cổ thi ("Mõ thảm không khua mà cũng cốc – Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"; "Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc – Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo"; "Gió giật khuông non khua lắc cắc – Sóng dồn mặt nước vỗ long bong",… Ngay cả màu dung nhan trong thơ Xuân Hương rộng rãi khi cũng như muốn gào lên, muốn hét lên: "Cửa son đỏ loét sùm sụp nóc – Hòn đá xanh rì nhún nhường phún rêu"; "Một trái trăng thu chín mõm mòm – Nẩy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom",…).

Tuy nhiên, âm thanh hay màu sắc, dù sao tự nó cũng phát ra tiếng động hoặc hiện thành xanh, vàng, trắng, đỏ,… Nhà thơ chỉ bắt buộc cường điệu thật to, tô cho thật đậm để vươn lên là âm thanh, màu dung nhan độc đáo của Xuân Hương. Nhưng dưới ngòi bút của nữ sĩ họ Hồ, ngay cả các vật hoàn toàn tĩnh lại, hoàn toàn bất động cũng bỗng nhiên trở nên các sinh vật biết cựa quậy, biết vùng vẫy, biết phá phách: "Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân trời đá mấy hòn". Thủ pháp đảo ngữ được tiêu dùng ở đây càng nhấn mạnh tính hoạt động mạnh mẽ, dữ dội của thế giới nghệ thuật Hồ Xuân Hương.

Vậy là dòng tôi đầy sinh khí mà bị dồn nén của Xuân Hương từ những câu đề, qua hai câu thực, đến các câu luận, cứ nổi lên dần: khi đầu là nỗi chán chường, ngao ngán "Trơ cái hồng nhan mang nước non", tiếp đấy là tâm cảnh bực dọc, bồn chồn, muốn say mà ko say được, trong lúc đêm thì tàn mà trăng vẫn khuyết: "Chén rượu hương đưa say lại tỉnh – Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn". Cuối cùng là nỗi bức bối, niềm phẫn uất muốn vùng lên phá phách. Khát vọng sống của con người này, yêu cầu thực hiện triệt để tính cách, thời trang của người đàn bà đặc trưng này, chẳng các chế độ phong kiến ko dung nổi, mà tới trời đất cũng trở nên chật hẹp.

Không nên tự nhiên mà Xuân Hương thường đặt nhân vật của mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn, kề vai có vũ trụ bát ngát ("Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bảy nổi ba chìm mang nước non"; "Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi có non sông"; "Văng vẳng bên tai tiếng khóc chồng – Nín đi kẻo thẹn mang non sông"; "Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn – Trơ dòng hồng nhan sở hữu nước non",… Ấy là một con người mang kích cỡ đặc biệt, ko nên chỉ của bản thân mình hay của một gia đình, 1 làng, 1 xã, mà còn là của nhân dân, của đất nước, của Tạo hoá, của vũ trụ. Có nghĩ như vậy, ta mới hiểu được vì sao Xuân Hương có thể tự đặt mình từ thế đứng cực kỳ cao với thái độ và giọng điệu khôn cùng kẻ cả khi đối thoại có đời, dù đấy là các bậc hiền nhân quân tử, là Thái thú Sầm Nghi Đống, là các đấng anh hùng ("Mát mặt anh hùng lúc tắt gió") thậm chí là vua, là chúa ("Chúa dấu, vua yêu 1 loại này" – Vịnh chiếc quạt).

Nhưng Xuân Hương, dù tư tưởng có thể đi trước thời đại, nhưng trong đời thực vẫn không thể vượt khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, nổi loạn dù táo bạo thế nào cũng chỉ là những tung hoành trong ngừng của ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành bằng lòng căn số của mình bằng 1 tiếng thở dài ngao ngán:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mánh tình san sẻ tí con con!

Nhưng Xuân Hương thực sự là thi sĩ của mùa xuân, tuổi xanh và tình yêu của sự sống tươi ròng, của ý thức lạc quan, yêu đời. Đó cũng chính là chất dân gian đậm đặc của hồn thơ này. Đọc thơ Xuân Hương, thấy có đủ cả buồn khổ, đắng cay, chán chường, căm uất, đủ cả oán thù, phẫn nộ, thậm chí muốn tung hết tất cả, phá phách tất cả…, nhưng không bao giờ mất hết niềm tin ở cuộc đời, ở sự sống. Điều đấy có thể cảm nhận vô cùng rõ ở thế giới nghệ thuật vô cùng sống động của nữ sĩ, 1 thế giới không bao giờ hoàn toàn vắng lặng: nếu ko mang tiếng chuông chùa văng vẳng, tiếng mõ, tiếng trống cầm canh thì cũng có tiếng "gà gáy trên bom", tiếng "sóng dồn mặt nước", tiếng "gió giật sườn ku casino non", hay "cành thông gió thốc",… Và ví như lắng nghe còn thấy "Rúc rích thây cha con chuột nhắt – Vo ve mặc má dòng ong bầu",… Một thế giới hình tượng sống động, luôn cựa quậy, luôn hoạt động: "Cỏ gà nhún mình phún leo loanh quanh mép – Cá giếc te tái lách giữa dòng" ; "Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá qiấy hòn" ; "Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi có non sông",… Một thế giới đầy màu sắc đẹp trẻ trung, hồng hào, tươi tốt, chan chứa xuân sắc, xuân tình,… Tất cả đều được phát hiện và đánh giá theo một ý kiến mĩ học độc đáo của Xuân Hương: lấy vẻ đẹp thanh tân, khoẻ khoắn, phồn thực, trùng hợp của thân thể người nữ giới giữa tuổi xuân làm cho chuẩn. Trong thế giới nghệ thuật ấy, tiếng khóc không hẳn là lời tuyệt vọng và mẫu chết không hề muốn ngăn đường sự sống cKhóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc,…).

Đúng là Tự tình (bài II) đã chấm dứt bằng 1 lời chua chát: "Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình chia sẻ tí con con". Nhưng như thế là tuổi xuân chưa hết, tình xuân vẫn đầy.

Xưa thường sở hữu câu: "Chữ rằng, xuân bất tái lai". Nhưng Xuân Hương lại nói "xuân đi xuân lại lại”, sở hữu tức là người đàn bà vẫn còn có loại để chờ đợi, để ước ao, tuy rằng hạnh phúc trông đợi ấy chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn: "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".

Có 1 vấn đề cực kỳ bắt buộc đặt ra đối với thơ Hồ Xuân Hương kể chung: Vì sao tư tưởng dân gian gần như thuần chủng, thuần chất ở Xuân Hương lại không được miêu tả bằng các thể thơ dân gian như lục bát, song thất lục bát mà lại tự ép mình vào khuôn khổ thơ Đường, 1 thể thơ chưng học ngoại nhập, lệ luật cực kỳ nghiêm minh? Lại 1 nét oái oăm, độc đáo của thơ Xuân Hương chăng? Nhưng ngẫm ra, thấy sự tậu lựa của nữ sĩ rất sở hữu lí, sở hữu thể nhắc là rất trùng hợp nữa.

Song thất lục bát là thể ngâm, hợp mang lời trữ tình than thở. Lục bát thì mạnh về khả năng tự sự và thiên về mô tả tình cảm thiết tha. Nhưng thơ Xuân Hương không chỉ mang tình cảm mà còn với trí tuệ, có tư tưởng, song song có nhu cầu tạo tính đa nghĩa trên mỗi loại thơ, từ mỗi hình ảnh, mỗi ngôn từ: nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, nghĩa trần trụi, nghĩa ỡm ờ, nghĩa từ vựng, nghĩa xã hội – tâm lí, nghĩa thanh, nghĩa tục, v.v.

Muốn đạt được các bắt buộc ấy, Xuân Hương siêu bắt buộc đến khả năng của thất ngôn bát cú, của cấu trúc chặt chẽ, của luật đối ngẫu và của tính hàm súc với khả năng dồn nén rộng rãi nghĩa và tạo ý bên cạnh lời (ý tại ngôn ngoại).

Nhưng Xuân Hương, 1 mặt khai khẩn khả năng của thơ Đường, mặt khác lại cố tình xoá sạch, khước từ điển tích, điển cố, lối biểu đạt ước lệ phương pháp điệu hoá, sự tiêu dùng màu sắc tao nhã, trừu tượng, thay vào ấy là sự khai khẩn triệt để những ngôn từ thuần Việt và các thú pháp nghệ thuật dân gian, đặc trưng là nghệ thuật trào phúng, hổn nhiên và táo tợn của ca dao, dân ca, của truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… Và trên dòng văn bản Việt hoá và dân gian hoá đó, bao giờ cũng hằn lên mẫu dấu triện "Xuân Hương hoá" đầy bắt mắt độc đáo và mãnh liệt của "thiên tài kì nữ" họ Hồ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *